Con tằm

16


… cần gì của tươi vật sống, rồi nợ máu kia cũng đủ khiến người no say.

Thomas Dekker và Thomas Middleton
The Honest Whore

Sáng hôm sau, vừa mở mắt hắn đã biết ngay là giường lạ.

Nệm quá êm ái, tấm trải quá mềm mại; ánh sáng đổ vào phòng cũng khác, còn tiếng mưa đập vào cửa sổ đã bị làm dịu đi qua rèm cửa khép kín. Hắn ngồi thẳng dậy, nheo mắt đảo một vòng quanh phòng ngủ của Nina mà đêm trước chỉ kịp nhìn lướt qua trong ánh đèn mờ. Qua tấm gương đối diện hắn thấy mình đang ở trần, bộ ngực lông lá đen sẫm nổi bật trên nền tường sơn xanh nhạt sau lưng.

Nina không có nhà, nhưng hắn ngửi thấy mùi cà phê. Y như hắn đoán, Nina rất hào hứng nhiệt tình trên giường, khiến hắn tạm thời quên đi chút ngậm ngùi mỗi dịp sinh nhật. Tuy vậy, giờ đây hắn tính bài làm sao chuồn lẹ. Cứ dây dưa ở đây thì sẽ khiến cô nàng tiếp tục kỳ vọng ở hắn, mà hắn thì không sẵn lòng đáp lại.

Chiếc chân giả dựa vào bức tường cạnh giường. Hắn vừa dợm với lấy thì kịp dừng tay lại. Cửa mở, Nina bước vào, áo xống đầy đủ, báo mới kẹp dưới cánh tay, một tay cầm hai cốc cà phê còn tay kia cầm một đĩa bánh sừng bò.

“Tôi chạy ra ngoài một chút,” cô nói, thở không ra hơi. “Trời đất, thời tiết chán quá. Anh sờ mũi tôi này, cóng cả lên.”

“Cô đâu cần phải bày vẽ vậy,” hắn chỉ tay tới đĩa bánh.

“Tôi đang đói, dưới đường lại có tiệm bánh ngon hết sẩy. À, mà anh coi nè – tờ News of the World – bài độc quyền của Dom!”

Tấm hình vị quý tộc với tài khoản ngân hàng giấu kín mà Strike đã tiết lộ cho Culpepper chiếm trọn khoảng giữa trang nhất, chung quanh là ảnh chụp hai cô nhân tình và bản sao kê ngân hàng ở đảo Cayman do Strike moi được từ ả thư ký. Ngài Phát-phì xứ Phất-phơ dòng tít như đang hả hê hét. Strike đón tờ báo từ tay Nina, đọc lướt qua. Culpepper đã giữ đúng lời hứa: không đả động đến ả thư ký thất tình.

Nina ngồi xuống gường ngay cạnh hắn, cùng đọc báo, lâu lâu lại thích thú bình luận: “Lạy Chúa, ai lại… nhìn ông ta kìa” rồi “Trời đất, gớm chưa.”

“Được việc cho Culpepper quá còn gì,” Strike nói, gấp tờ báo lại khi cả hai đã đọc xong. Hắn dừng mắt ở dòng ngày tháng trên báo: 21 tháng mười một. Ngày sinh nhật vợ hụt của hắn.

Trong giây lát, hắn thấy nhói lòng, tự dưng một mớ kỷ niệm đau thương xồng xộc ùa về… mới một năm trước, gần y giờ này, hắn thức dậy bên cạnh Charlotte trong căn hộ ở đại lộ Holland Park. Hắn nhớ mái tóc dài đen mượt của cô, đôi mắt màu hạt dẻ, thân hình mà hắn sẽ không bao giờ thấy lại nữa, cũng sẽ không bao giờ được chạm đến… Sáng hôm đó cả hai đã rất hạnh phúc, chiếc giường như chiếc thuyền cứu hộ bồng bềnh trên sóng gió không ngớt trong cuộc sống của hai người. Hắn đã tặng cô một chiếc vòng tay (mà hắn phải mua bằng tiền cho vay nặng lãi, mặc dù cô chẳng hề hay biết)… rồi hai ngày sau đó, vào đúng sinh nhật hắn, cô tặng hắn một bộ complet Ý. Hai người đi ăn tối, đã định một ngày sẽ làm đám cưới, mười sáu năm sau lần đầu gặp nhau…

Nhưng việc định ngày như đánh dấu một giai đoạn khủng hoảng mới, cứ như phá đi chút cân bằng mong manh trước đó. Charlotte càng lúc càng thất thường, nóng nảy. Những trận cãi vã, ly tách bị ném vỡ, rồi cả những lời buộc tội hắn lừa dối (trong khi chính cô ta, mà giờ hắn đã biết, mới là người lén lút gặp người thứ ba, cũng là vị hôn phu hiện nay của Charlotte)… Hai người chật vật thêm gần bốn tháng nữa, cho đến một trận cãi nhau long trời lở đất đặt dấu chấm hết vĩnh viễn.

Có tiếng chăn mền sột soạt: Strike nhìn quanh, gần như ngạc nhiên khi thấy mình vẫn còn ở trong phòng ngủ của Nina. Cô vừa dợm cởi áo, leo lên giường với hắn.

“Tôi phải đi giờ,” hắn nói, với tay lấy chiếc chân giả một lần nữa.

“Sao vậy?” cô hỏi, hai tay vẫn còn vòng trước ngực, nắm chặt gấu áo. “Thôi mà, Chủ Nhật mà!”

“Tôi phải làm việc,” hắn nói dối. “Chủ Nhật cũng có người cần điều tra.”

“Ồ,” cô nói, cố ra vẻ thản nhiên nhưng trông tiu nghỉu.

Hắn uống cạn cà phê, cố nói chuyện vui vẻ nhưng không quá thân mật. Cô ngắm hắn lắp chiếc chân giả, đi vào nhà tắm. Khi hắn trở ra, chuẩn bị mặc áo, cô ngồi co người trên ghế, gặm bánh sừng bò, trông hơi buồn buồn.

“Cô không biết cái nhà đó ở đâu sao? Cái nhà mà Quine và Fancourt thừa kế đó?” hắn vừa hỏi Nina, vừa mặc quần dài.

“Gì kia?” cô hỏi, thoáng bối rối. “À, trời đất, đừng nói anh muốn đi tới đó chứ? Tôi nói rồi, đã bán từ đời tám hoánh.”

“Để tôi hỏi vợ Quine xem sao,” Strike đáp.

Rồi hắn nói sẽ gọi lại cho cô, nhưng nói thật nhanh, để cô hiểu rằng hắn chỉ hứa suông, cho có lệ. Tạm biệt Nina, trong lòng hắn có chút cảm kích nhưng không hề thấy tội lỗi.

Strike bước xuống con phố xa lạ, tìm đường ra bến tàu. Nước mưa đâm thẳng xuống mặt và tay hắn. Đèn trang trí Giáng Sinh lấp lánh trước tiệm bánh nơi Nina vừa mua bánh sừng bò. Bóng Strike cúi người lướt qua trên cửa sổ lấm tấm mưa, tay nắm chặt túi ni lông mà Lucy đã chu đáo đưa để hắn đựng thiệp mừng, chai whisky quà sinh nhật và hộp của chiếc đồng hồ mới.

Hắn cứ nghĩ đến Charlotte. Charlotte ba mươi sáu tuổi mà trông như chỉ hai lăm, hẳn đang mừng sinh nhật bên vị hôn phu mới. Có lẽ hôm nay cô được tặng kim cương, Strike thầm nghĩ; lúc nào cô cũng nói cô không cần những món đó, nhưng mỗi khi hai người gây gổ, hình ảnh những thứ lấp lánh mà hắn chẳng thể nào đem đến cho cô cứ hiện ra thật rõ trước mắt…

“Cha đó ngon lành không?” Greg đã hỏi như thế về Owen Quine. “Ngon lành” theo ý ông em rể là “Xe xịn? Nhà đẹp? Nhiều tiền?”

Strike đi ngang qua quán Beatles Coffee Shop, hình trắng đen chụp nhóm Tứ Quái ngộ nghĩnh nhìn lại hắn, rồi đến nhà ga, hắn thấy ấm dần lên. Hắn không hề muốn nằm chèo queo trong căn phòng áp mái ở phố Denmark trong một ngày Chủ Nhật mưa dầm như thế này. Hắn muốn loay hoay bận rộn, để quên đi hôm nay là sinh nhật Charlotte Campbell.

Hắn dừng lại, rút điện thoại ra, gọi cho Leonora Quine.

“Alô?” Bà ta cộc lốc.

“Chào chị Leonora, Cormoran Strike đây…”

“Anh tìm ra Owen chưa?” Leonora hỏi thẳng.

“E là chưa. Tôi gọi vì mới nghe là hồi đó chồng chị có được thừa kế một căn nhà từ người bạn.”

“Nhà nào?”

Nghe giọng bà ấy mệt mỏi và bực bội. Hắn nghĩ đến mấy ông chồng lắm của mà hắn từng gặp trong công việc, ông nào cũng có phòng nhì, vợ con không hề hay biết. Hắn tự hỏi phải chăng mình vừa làm lộ bí mật của Owen.

“Có đúng vậy không? Có phải một nhà văn tên là Joe North để lại căn nhà cho chồng chị và…?”

“À, cái đó hả,” bà ta đáp. “Phố Talgarth, đúng rồi. Nhưng mà đã hơn ba mươi năm rồi. Anh hỏi chuyện đó làm gì?”

“Nhà đó bán rồi sao?”

“Chưa,” bà ta bực dọc đáp, “bởi vì Fancourt dở hơi đâu có để tụi tôi bán. Chỉ để trêu ngươi thôi, vì ông ấy cũng không thèm ở. Cái nhà để hoang vậy, không ai ở, mốc meo đổ nát.”

Strike đứng dựa lưng vào tường bên cạnh máy bán vé tàu, mắt hắn dán vào trần nhà hình tròn có thanh rầm đỡ như mạng nhện. Hắn lại tự rủa mình, đây, hậu quả của việc nhận khách hàng khi không tỉnh táo. Đáng ra hắn phải hỏi liệu vợ chồng bà ta có nhà cửa nào nữa không. Phải xác minh ngay từ đầu.

“Có ai tới đó tìm chồng chị chưa hả chị Quine?”

Bà ta hừ một tiếng, bỉ bôi.

“Đời nào ổng tới đó!” bà ta nói, cứ như thể Strike vừa nói rằng chồng mình đi trốn trong điện Buckingham. “Ổng ghét chỗ đó lắm, không bao giờ mò tới đâu! Với lại ở đó đâu có đồ đạc gì.”

“Chị có chìa khóa nhà không?”

“Không biết nữa. Nhưng Owen không tới đó đâu, chắc luôn! Từ đời nào rồi ổng có thèm đâu. Ở gì cái chỗ đó, vừa cũ vừa trống hoác.”

“Nếu chị thử tìm chìa khóa…”

“Tôi không rảnh mà đi tới phố Talgarth được đâu, còn Orlando nữa” bà ta đáp, đúng y như hắn đoán. “Với cả, tôi nói anh rồi, ổng không…”

“Giờ tôi ghé qua nhà chị được,” Strike nói, “rồi tôi sẽ lấy chìa khóa, nếu chị tìm ra, tôi sẽ đến đó xem sao. Cứ tới kiểm tra cho chắc ấy mà.”

“Ừ, nhưng… hôm nay Chủ Nhật mà,” bà ta nói, có vẻ ngạc nhiên.

“Tôi biết rồi. Chị đi tìm chìa khóa cho tôi được không?”

“Được thôi,” bà ta nói, sau khi im lặng trong giây lát. “Nhưng,” bà ta vẫn khăng khăng, “ổng không có ở đó đâu!”

Strike đáp tàu, đổi tàu một lần đến ga Westbourne Park. Hắn lật cổ áo khoác che gió mưa tê buốt, đi về phía địa chỉ mà Leonora đã nguệch ngoạc ghi lại khi đến văn phòng tìm hắn.

Khu Leonora ở là một trong những khu hơi lạ đời ở London, nơi đó từ nhà đại gia đến nhà của dân lao động mua đã hơn bốn chục năm chỉ cách vài bước chân. Màn mưa để lộ khung cảnh như một bức tranh tầm sâu lạ lùng: những tòa nhà chung cư mới rợi mọc lên sau những dãy nhà liên kế tĩnh lặng, tầm thường, nhà mới thì sang trọng còn nhà cũ trông có vẻ ấm cúng.

Nhà của Quine ở phố Southern Row, một con phố nhỏ yên tĩnh toàn những ngôi nhà gạch nhỏ, gần quán rượu sơn màu trắng có tên là The Chilled Eskimo. Lạnh buốt và ướt nhẹp, Strike nheo mắt nhìn bảng hiệu quán ngay trên đầu khi bước qua; bảng hiệu vẽ hình một người Eskimo đang câu cá thư giãn bên cạnh hố nước, quay lưng về phía mặt trời đang mọc.

Cánh cửa vào nhà Quine có màu xanh nhờ nhờ, tróc sơn. Mặt tiền nhà nhìn đâu cũng thấy hỏng hóc, đến chiếc cổng cũng chỉ còn mỗi một bản lề. Strike nghĩ đến sở thích ở khách sạn tiện nghi của Owen mà thấy ngán ngẩm với ông nhà văn này. Hắn đưa tay bấm chuông.

“Anh lẹ thiệt,” Leonora mở cửa, chào hỏi cụt ngủn. “Vô nhà đi.”

Hắn theo Leonora đi vào hành lang tối tăm, chật hẹp. Bên tay trái có một cánh cửa mở hé, phòng bên trong có vẻ như thư phòng của Owen Quine, trông bẩn thỉu và luộm thuộm. Ngăn kéo mở lung tung, một chiếc máy chữ điện đã cũ đặt chênh vênh trên bàn. Strike hình dung cảnh Owen lồng lộn xé giấy trong cơn giận Elizabeth Tassel.

“Chị có tìm ra chìa khóa không?” Strike hỏi Leonora khi cả hai bước vào căn bếp cũng tối om, có mùi âm ẩm chua chua phía cuối hành lang. Mấy thứ đồ bếp trông như đã có từ ba mươi năm trước. Strike nhớ hồi những năm tám mươi mợ Joan cũng có một cái lò vi sóng màu nâu sẫm y chang vậy.

“À, tìm được một mớ,” Leonora đáp, huơ tay chỉ năm sáu chiếc chìa khóa la liệt trên bàn. “Không biết là cái nào.”

Không có chìa nào gắn móc khóa. Một chìa trông to đùng, như thể chìa khóa cửa nhà thờ.

“Nhà đó số bao nhiêu phố Talgarth?” Strike hỏi Leonora.

“Một trăm bảy chín.”

“Chị tới đó lần cuối khi nào?”

“Tôi hả? Có tới bao giờ đâu,” bà ta đáp, có vẻ thờ ơ thật sự. “Tôi chả thiết. Đúng vớ vẩn.”

“Vớ vẩn sao kia?”

“Thì chuyện để lại nhà cho cả hai người đó.” Đáp lại vẻ mặt hỏi han lịch sự của Strike, bà ta sốt ruột nói, “Tay Joe North đó, để lại cho cả Owen lẫn Michael Fancourt. Nói là để có chỗ mà viết sách. Từ đó giờ có ai ở đâu. Vô ích.”

“Mà chị chưa bao giờ tới đó sao?”

“Không. Hồi đó là lúc tôi vừa sinh Orlando. Tôi chả thiết,” bà ta lặp lại.

“Orlando sinh ra lúc đó à?” Strike hỏi, ngạc nhiên. Hắn cứ hình dung Orlando là một đứa bé mười tuổi hiếu động.

“Ừ, năm tám sáu,” Leonora đáp. “Nhưng nó bị bịnh.”

“Ồ,” Strike nói. “Tôi hiểu rồi.”

“Giờ nó đang hờn trên gác, vì mới bị tôi rầy” Leonora kể, tuôn một tràng như thói quen. “Nó cứ tắt mắt, lấy đồ linh tinh. Nó biết làm vậy sai, nhưng mà cứ làm. Hồi hôm qua khi Edna qua chơi, tôi bắt quả tang nó lấy ví của Edna. Không phải tiền bạc gì,” bà ta nhanh chóng kể thêm, cứ như Strike vừa buộc tội con gái. “Vì nó thích màu đó thôi. Edna thông cảm vì bà ấy quen với nó rồi, nhưng không phải ai cũng vậy. Tôi rầy nó. Nó biết lỗi rồi.”

“Giờ tôi lấy hết chỗ chìa này đi thử được không?” Strike hỏi, vét đám chìa khóa lên tay.

“Tùy anh,” Leonora đáp, rồi khăng khăng, “Ổng không có đó đâu.”

Strike bỏ đám chìa khóa vào túi, từ chối lời mời uống trà hay cà phê trễ tràng của Leonora rồi bước vào màn mưa.

Hắn nặng nhọc lê bước về phía ga Westbourne Park. Đáp tàu từ đó sẽ tiện đường, không phải đổi tàu nhiều lần. Lúc ở nhà Nina, vội đi nên hắn đã không cẩn thận lắp chân cho kỹ, lại còn không thể xoa kem bảo vệ lớp da mỏm chân.

Tám tháng trước đó (ngay hôm bị đâm vào cánh tay) Strike ngã một cú trời giáng xuống cầu thang. Bác sĩ có nói rằng tình trạng chân cẳng của hắn có xấu đi, nhưng vẫn cứu vãn được, dây chằng đầu gối của bên chân cụt bị tổn thương, rồi nói hắn nên chườm đá, nghỉ ngơi và tái khám. Nhưng Strike vẫn chưa nghỉ ngơi được, cũng không muốn đi khám lại, vậy là hắn lắp chân giả lên trên gối rồi mỗi khi ngồi thì nhớ nhấc mỏm chân lên. Vết thương đã đỡ nhưng nếu hắn đi đứng quá nhiều thì lại sưng tấy, đau buốt.

Con đường phía trước uốn về phía bên phải. Một dáng người cao, gầy, hơi khom đi ngay sau lưng hắn, đầu cúi gằm xuống, chỉ thấy mỗi chiếc mũ áo đen.

Đương nhiên, lúc này đây hắn nên về nhà, nghỉ ngơi. Chủ Nhật mà. Hắn đâu cần đi lang thang khắp London giữa trời mưa như vậy.

“Ổng không ở đó đâu”, giọng Leonora vọng lên trong đầu hắn.

Nhưng nếu về thì lại nằm nghe tiếng mưa đập rầm rầm trên khung cửa sổ xiêu vẹo cạnh chiếc giường dưới đầu hồi, mấy cuốn album ảnh Charlotte gần đó, ngay trong đám thùng giấy đặt ngoài cửa…

Hắn thà đi tiếp, làm việc tiếp, suy nghĩ tiếp về những rối rắm của kẻ khác…

Hắn nheo mắt trong mưa, nhìn lên những căn nhà vừa đi qua, cảm nhận rõ bóng người đi bộ sau mình chưa tới hai chục mét. Người đó mặc áo choàng lùng thùng nhưng Strike vẫn cảm giác rõ, từ tiếng bước chân nhanh, ngắn, rằng người này là nữ giới.

Strike để ý thấy cách cô ta bước đi có gì đó không bình thường, hơi lạ lùng. Không có vẻ gì là đi bộ lang thang trong trời mưa lạnh cả. Cô ta cúi đầu không phải để tránh mưa, mà giữ khoảng cách đều với hắn, chứ không phải có đích đến rõ ràng. Cô ta cứ thay đổi bước đi từng chút một, nhưng Strike vẫn nhận ra mỗi lần cô ta tiến lại gần hắn hơn một chút. Cứ vài bước gương mặt nấp dưới mũ áo lại thoắt hiện thoắt ẩn dưới màn mưa xối xả. Cô ta đang cố bám theo hắn.

Leonora đã nói gì khi đến tìm hắn ở văn phòng?

“Còn, có người theo dõi tôi. Một con nhỏ cao, tóc đen, vai so.”

Strike thử thay đổi tốc độ bước đi, lúc nhanh lúc chậm từng chút một. Khoảng cách giữa hai người vẫn y nguyên vậy; gương mặt cô ta hé ra thường xuyên hơn, nước da trắng trẻo hồng hào. Cô ta liên tục quan sát hắn.

Rõ là cô gái này không biết cách theo dõi. Nếu là Strike, hắn đã chọn đi bên vỉa hè đối diện, giả vờ nói điện thoại để che giấu mục đích, thay vì cứ dò dò bám đuôi như vậy.

Để giải khuây, hắn giả vờ dừng lại đột ngột, cứ như thể vừa nhận ra đã đi nhầm đường. Bị bất ngờ, bóng đen theo sau đứng sững lại như tê liệt. Strike bước tiếp, vài giây sau đã nghe thấy tiếng bước chân cô ta vang vọng trên vỉa hè lẹp nhẹp sau lưng hắn. Cô ta còn không biết là mình vừa bị hắn chơi.

Ga Westbourne Park hiện ra phía trước: một tòa nhà dài, thấp tầng, gạch vàng. Tới đó hắn sẽ chặn đường bóng đen kia lại, giả vờ hỏi giờ để nhìn cho rõ mặt.

Hắn bước vào nhà ga, rẽ qua một bên cửa, đứng đợi sẵn.

Ba mươi giây sau hắn thấy bóng đen cao cao xuất hiện, đi thẳng vào cửa ga qua màn nước mưa lóng lánh, tay vẫn đút túi. Rõ là cô ta sợ nhỡ mất hắn, sợ là hắn đã lên tàu rồi.

Nhanh như cắt, hắn quay ra cửa ga để đối mặt với cô gái – nhưng cái chân giả bỗng loạng choạng trên nền gạch ướt, mất đà.

“Mẹ kiếp!”

Hắn vụng về xoạc một chân rồi ngã nhào xuống sàn ướt nhẹp, dơ dáy, ngồi lên cả chai rượu whisky trong túi xách. Hắn thấy cô ta ở cửa ga, đứng sững lại rồi lỉnh đi như con nai vừa thấy động.

“Chó chết,” hắn thở hồng hộc, nằm dài trên nền gạch, đám đông đứng gần máy bán vé nhìn hắn chằm chằm. Khi ngã xuống hắn lại trặc chân tiếp; như thể vừa làm rách dây chằng; đầu gối chỉ mới đó còn đau rền, giờ nhức tới xương. Hắn lầm bầm rủa sàn nhà vừa lau, rủa cả khớp mắt cá chân giả quá cứng nhắc, rồi gượng đứng dậy. Không ai muốn lại gần hắn. Rõ là người ta tưởng hắn vừa uống say – chai whisky của Nick và Ilsa tặng tuột khỏi túi ni lông, lăn lông lốc trên sàn nhà.

Cuối cùng một nhân viên nhà ga tới đỡ hắn đứng dậy, lẩm bẩm là đã có bảng báo sàn ướt rồi đó, sao quý khách không nhìn ra, bộ bảng để chỗ khó đọc quá hả? Anh ta nhặt chai whisky đưa cho hắn. Nhục nhã ê chề, Strike lí nhí cảm ơn rồi lê lết về phía cổng soát vé, chỉ muốn tránh vô số ánh mắt tò mò chung quanh.

Khi đã yên vị trên chuyến tàu đi về phía nam, hắn duỗi chiếc chân ê ẩm, nắn đầu gối cật lực qua làn vải quần. Đầu gối hắn mềm nhũn, đau đớn, y như hồi ngã cầu thang năm ngoái. Hắn tức sôi người, lại còn cái đuôi kia nữa. Hắn cố nghĩ xem chuyện gì vừa xảy ra.

Cô ta bám đuôi hắn từ khi nào? Cô ta có nhìn thấy hắn đi vào nhà Quine không? Có khi nào (nghĩ mà phát rầu) cô ta nhầm hắn với Owen Quine không? Kathryn Kent đã từng nhầm rồi, trong bóng tối…

Vài phút trước khi tàu dừng ở ga Hammersmith, Strike đứng dậy, chuẩn bị tư thế để xuống tàu mà nơm nớp. Khi đến ga Barons Court, cũng là trạm cuối, hắn lê chân nặng nhọc, ước giá mà lúc này có cây gậy chống. Hắn bước ra khỏi phòng vé tường lót gạch men xanh màu đậu kiểu thời Victoria, cẩn trọng đặt chân xuống nền nhà ướt nhẹp đầy dấu giày. Nhanh chân rời khỏi nhà ga xinh xắn, với những dòng chữ theo trường phái Art Nouveau và đá chạm trang trí, hắn bước vào màn mưa không dứt, đi về phía con đường cao tốc rầm rầm tiếng xe chạy gần đó.

Hắn thở phào nhẹ nhõm khi ra đến ngay đoạn phố Talgarth có ngôi nhà đang tìm.

Mặc dù ở London đâu cũng có nhà cửa với kiến trúc độc đáo, lạ thường, hắn chưa bao giờ thấy nhà cửa nơi đâu mà không ăn nhập với khung cảnh chung quanh như ở đây. Những ngôi nhà cũ sắp thành hàng riêng, gạch đỏ sẫm như gợi nhớ tới một thời hoành tráng hơn, trong khi xe cộ vẫn nườm nượp ngược xuôi trên tuyến giao thông huyết mạch từ phía tây vào London.

Nhà ở đây chủ yếu là loại nhà kiêm xưởng sáng tác kiểu cọ của các nghệ sĩ cuối thời Victoria, với khung cửa sổ thấp, song chì mắt cáo, tầng trên thường có cửa sổ lớn quay hướng bắc, có cả mái vòm cảnh vẽ, tựa những mảnh vỡ của Điện Pha Lê đã biến mất từ lâu. Dù bị mắc mưa, lạnh và đau chân, Strike vẫn đứng lại trong giây lát, nhìn lên nhà số 179. Hắn sững sờ trước kiến trúc nổi bật của ngôi nhà, tự hỏi liệu Quine sẽ kiếm được bao nhiêu tiền nếu Fancourt đổi ý chịu bán nhà.

Hắn nhấc người lên tam cấp trắng. Cửa trước có mái vòm gạch chắn mưa, đầy chi tiết bằng đá chạm trổ hình rèm buông, bút nghiêng và phù hiệu. Strike rút đám chìa khóa ra, ngón tay lạnh tê.

Chìa thứ tư trượt vào ổ khóa gọn êm, quay một vòng trơn tru như thể đã được dùng nhiều năm. Một tiếng “cách”, cửa trước mở ra. Hắn bước qua bậc cấp, đóng cửa lại sau lưng.

Vào nhà, Strike thấy như mình vừa bị tát hay bị tạt một gáo nước lạnh. Hắn loay hoay kéo cổ áo che kín mũi miệng. Hắn đã hình dung sẽ ngửi thấy mùi bụi bặm và gỗ mục, nhưng xộc vào mũi là thứ mùi hóa chất gay gắt, như muốn bám lại trên mũi và cổ họng.

Theo phản xạ hắn đưa tay tìm công tắc đèn trên tường. Ánh sáng tràn xuống từ hai chiếc bóng đèn trơ trọi trên trần nhà. Sảnh trước nhà chật, trống trải, có lót gỗ màu mật ong. Giữa chừng sảnh là mái vòm kiểu cọ, có cột chống hoa văn vặn xoắn cũng bằng gỗ. Mới nhìn qua trông mọi thứ có vẻ êm đềm, thanh lịch, cân xứng.

Nhưng nheo mắt nhìn kỹ Strike dần dần nhận ra những vết loang lớn, trông như vừa bị cháy trên vách gỗ. Hẳn có ai đó đã tạt một thứ chất lỏng ăn mòn, hăng hắc khắp nhà, như trong một cơn đập phá điên cuồng. Mùi của nó đến giờ vẫn còn nồng nặc trong không khí bụi bặm. Nó đã tẩy sạch lớp véc-ni trên sàn nhà lâu năm, làm tróc luôn lớp nước bóng phủ lên mặt gỗ cầu thang phía trước, thậm chí còn tạt lên khắp các bức tường, khiến từng mảng sơn tường lớn bị tẩy tróc, phai màu.

Strike cố hít thở qua lớp cổ áo vải xéc dày sụ. Trong giây lát hắn nhận ra ngôi nhà quá ấm, thật vô lý nếu đã bị bỏ hoang từ lâu. Hệ thống sưởi trong nhà được bật mức cao, khiến cho thứ mùi hóa chất gay gắt đó càng dữ dội, thay vì dịu đi trong cái lạnh của một ngày đông.

Dưới chân hắn có tiếng giấy tờ sột soạt. Hắn nhìn xuống, thấy một mớ thực đơn của các tiệm ăn giao tận nhà, thêm một bức thư GỞI CHỦ HỘ/ NGƯỜI COI SÓC NHÀ. Hắn cúi xuống nhặt bức thư lên. Bức thư chỉ là vài dòng ngắn ngủi, bực bội từ hàng xóm kế bên phàn nàn về mùi hôi của căn nhà.

Strike thả bức thư xuống tấm thảm chùi chân rồi đi vào phòng khách, quan sát những vết sẹo trên mọi bề mặt bị tạt hóa chất. Bên trái có một cánh cửa; hắn mở ra. Phòng sau cửa tối om, trống trơn, không bị tạt thứ chất như thuốc tẩy đó. Ngoài ra ở tầng dưới chỉ có thêm một phòng bếp xụp xệ, cũng không có đồ đạc gì cả. Bếp cũng bị tạt hóa chất khắp nơi; đến cả nửa khúc bánh mì thiu trên bệ cũng đẫm hóa chất.

Strike đi lên lầu. Đã có kẻ vừa đi trên cầu thang vừa đổ thứ chất ăn mòn kinh khủng đó từ một bình chứa khá lớn. Hóa chất văng tung tóe mọi nơi, ngay cả trên bệ cửa sổ, khiến nước sơn sủi bọt, nứt nẻ.

Ở tầng một Strike đứng sững lại. Qua lớp vải len dày hắn vẫn nhận ra một thứ mùi khác, không thể che đậy nổi dưới mùi hóa chất công nghiệp đậm đặc. Một thứ mùi ngòn ngọt, khăm khắm, thum thủm: mùi thịt người đang phân hủy.

Hắn bỏ qua hai cánh cửa đang đóng ở tầng một. Chai whisky lủng lẳng trong túi ni lông, hắn chầm chậm theo bước chân của kẻ tạt acid, lên một dãy cầu thang nữa, nơi lớp sơn gỗ cũng bị đốt sạch, tay vịn cầu thang chạm trổ sần sùi do lớp da bóng đã bị lột sạch.

Strike tiếp tục bước đi, mùi thịt rữa càng lúc càng nồng. Hắn nhớ đến thời còn ở Bosnia, khi đó bọn hắn thường dùng những cây gậy dài để chọc xuống mặt đất, rồi lôi ra, ngửi đầu gậy – một phương pháp hiệu quả để dò tìm những hố chôn người tập thể. Hắn kéo cổ áo che kỹ miệng khi lên đến tầng trên cùng – một xưởng sáng tác có lẽ là nơi một họa sĩ thời Victoria từng miệt mài làm việc trong thứ ánh sáng phương bắc không thay đổi.

Strike tiếp tục đi, chỉ thoáng dừng lại khi đẩy cửa bước vào, kéo tay áo phủ xuống để tránh lưu dấu tay trên cửa gỗ. Hoàn toàn im ắng. Bản lề cửa rít nhẹ. Rồi ruồi nhặng bay ra tứ tung.

Hắn đã hình dung ra cái chết đằng sau cánh cửa. Nhưng không hình dung sẽ như thế.

Trước mắt hắn là một cái xác bị trói gô lại, đang thối rữa, bốc mùi nồng nặc, nội tạng đã bị moi sạch. Xác nằm trên sàn nhà, nhưng khiến người ta nghĩ ngay đến những súc thịt nguyên con treo trên móc ngoài chợ. Nhưng cái thứ trông như con lợn mới vừa ra khỏi lò mổ ấy lại mặc áo quần như người.

Xác nằm ngay dưới rầm nhà uốn vòm trên cao, ngập trong ánh sáng đổ qua khung cửa sổ Roman cực lớn. Mặc dù đang đứng trong một căn nhà riêng, ngoài cửa kính xe cộ vẫn chạy ào ào, Strike thấy như mình đang nôn thốc tháo ở giữa một ngôi đền sau khi phải chứng kiến một màn giết chóc hiến tế, một hành động vô đạo, báng bổ thánh thần.

Bảy chiếc đĩa ăn và bảy bộ dao nĩa được bày chung quanh cái xác thối, cứ như thể đó là một tảng thịt khổng lồ vừa được dọn lên bàn. Phần thân mình bị rạch một đường từ cổ họng đến khung xương chậu. Chỉ đứng ở bậc cửa Strike cũng kịp nhìn ra khoang bụng đen ngòm, trống hoác. Bộ ruột đã bị lấy đi, như thể vừa được ăn hết. Vải áo và thịt da bị cháy xém ở nhiều hơn, càng gây ấn tượng mạnh rằng xác đã bị nướng chín và dọn ra đánh chén thỏa thuê. Đôi chỗ trên xác vừa bị cháy vừa đang phân hủy trông lóng lánh, như đang tan chảy. Bốn tấm sưởi quanh phòng bật hết công suất, phát ra tiếng xì xèo, làm cho quá trình phân hủy càng mạnh hơn.

Phần mặt nạn nhân ở gần cửa sổ là phần cơ thể xa nhất từ chỗ Strike đang đứng. Strike nheo mắt nhìn, không cử động, cố nín thở. Hắn chỉ thấy được lơ thơ vài cọng râu vàng vẫn còn bám vào cằm và một bên mắt bị đốt cháy, chỉ còn trơ hốc.

Mặc dù đã có nhiều kinh nghiệm chứng kiến cảnh chết chóc và các màn chém giết phanh thây, Strike phải cố lắm mới kìm được cơn buồn nôn giữa bầu không khí ngột ngạt mùi hóa chất hòa lẫn mùi tử thi. Hắn kéo túi ni lông lên cánh tay, rút điện thoại di động, chụp ảnh hiện trường từ mọi góc độ có thể mà không phải di chuyển thêm vào trong phòng. Rồi hắn rút ra khỏi xưởng, để cửa tự khép lại. Xú khí vẫn đặc quánh. Hắn gọi 999.

Mặc dù rất thèm không khí trong lành đã được mưa gột sạch ở bên ngoài, Strike vẫn di chuyển chậm rãi, cẩn trọng, cố không trượt chân thêm lần nữa. Hắn đi xuống cầu thang cháy loang lổ, ra đường đứng đợi cảnh sát đến.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.