Con tằm

26


Ta phải nhìn xuống chân:
Đường trơn băng tuyết không ngờ
Chân không vững bám nhỡ mà hại thân…

John Webster
The Duchess of Malfi

Cũng may là Strike vẫn còn năm trăm bảng tiền mặt trong túi, từ lúc nhận lời giải quyết vụ công tử nhà Gunfrey. Hắn bảo tài xế taxi chở đến phố Fulham Palace, chỗ Elizabeth Tassel ở, vừa đi hắn vừa để ý dọc đường. Nếu không phải dừng lại ở quầy dược phẩm Boots hẳn cuốc xe chỉ tốn chừng bốn phút. Hắn nói tài xế dừng lại, đợi ở ngoài. Không lâu sau hắn đi trở ra từ Boots, bước chân nhẹ nhõm hơn với chiếc gậy chống có thể chỉnh độ dài.

Hắn áng chừng một phụ nữ khỏe mạnh đi từ ga tàu về đó sẽ chỉ mất chưa đầy nửa tiếng. Khoảng cách từ nhà của Tassel đến hiện trường xa hơn từ chỗ Kathryn Kent. Nhưng Strike biết khá rõ khu này. Nếu Tassel là thủ phạm, bà ta có thể dễ dàng đi qua những con ngõ trong khu dân cư, né được các camerra theo dõi. Thậm chí nếu đi bằng xe hơi cũng có thể né được.

Nhà của bà đại diện nhà văn trông buồn bã, u ám trong ngày đông ảm đạm. Lại là một ngôi nhà gạch đỏ kiểu thời Victoria, nhưng không hề có những chi tiết hoành tráng hay ngộ nghĩnh như căn nhà ở phố Talgarth. Nhà của Tassel tọa lạc ở góc đường, phía trước là khu vườn rậm rạp, phủ đầy bóng những bụi cây kim tước um tùm. Mưa tuyết lại rơi khi Strike đứng bên cánh cổng nhìn chăm chú vào vườn, vừa cố khum tay giữ điếu thuốc khỏi tắt. Nhà của Tassel có cả vườn trước lẫn vườn sau, cả hai đều khuất tầm mắt người qua đường sau những bụi cây rậm rạp giờ đây đang trĩu nặng mưa tuyết. Cửa sổ tầng trên nhìn ra nghĩa địa phố Fulham Palace, một cảnh tượng não nề khi chỉ còn một tháng nữa là đến ngay giữa mùa đông. Cây cối trơ trọi như những cánh tay xương xẩu in bóng lên bầu trời trắng xóa, những tấm bia mộ cổ xưa nối nhau chạy mãi ra xa.

Elizabeth Tassel trong bộ complet bảnh tỏng màu đen, son môi đỏ thắm, từng nổi cơn tam bành không thèm che giấu với Owen Quine – Có lẽ nào bà ta đã trở về nhà trong bóng tối nhập nhoạng, người đầy máu me và acid, tay xách theo túi đựng đầy ruột người?

Cái lạnh châm chích quanh cổ và những ngón tay của Strike. Hắn dụi tàn thuốc rồi nói tài xế taxi chở đến phố Hazlitt ở Kensington. Tay tài xế nãy giờ vẫn dõi mắt theo khi hắn đứng ngắm nhà Elizabeth Tassel, vừa tò mò vừa nghi ngờ. Strike ngồi phịch xuống ghế xe, tộng thuốc giảm đau và nốc chai nước mua khi nãy ở Boots.

Bên trong chiếc taxi khá tù túng, nồng mùi thuốc lá, mùi bụi bẩn bám lâu ngày và mùi da cũ. Cần gạt nước vun vút đưa qua lại đều đặn như đếm nhịp, làm sáng rõ quang cảnh tù mù trên con phố Hammersmith bận rộn, nơi những tòa nhà văn phòng nhỏ đứng cạnh những dãy nhà liên kế ngắn. Strike nhìn ra nhà dưỡng lão Nazareth: lại gạch đỏ, êm đềm như nhà thờ, nhưng đằng trước có cổng an ninh, bảo vệ trực – một ranh giới vững chắc giữa người được săn sóc và những kẻ kém may mắn hơn.

Tòa nhà Blythe House hiện ra qua cửa xe mịt mờ, hoành tráng như cung điện với những vòm cửa màu trắng, nhìn xa xa như chiếc bánh khổng lồ ánh hồng giữa mưa tuyết xám xịt. Strike nhớ mang máng đã có lúc chỗ này từng được dùng để làm kho của một bảo tàng lớn. Xe taxi rẽ vào phố Hazlitt.

“Số nhà bao nhiêu?” tài xế hỏi.

“Anh thả tôi xuống đây cũng được,” Strike đáp. Hắn không muốn đáp xe ngay trước nhà, và cũng chưa quên là phải trả lại mớ tiền mấy hôm nay đã phung phí. Hắn dồn sức nặng cơ thể lên chiếc gậy, thấy mừng vì đầu gậy có bọc cao su nên bám khá chắc trên vỉa hè trơn trượt. Hắn trả tiền cho tài xế, đi dọc phố đến nhìn cho kỹ nhà của ông bà Waldegrave.

Nhà cửa ở đây đúng kiểu nhà mặt phố, cao bốn tầng kể cả tầng hầm, gạch vàng, trán tường trắng cổ điển, có chạm trổ hình vòng hoa dưới các cửa sổ tầng trên, thêm cả chấn song bao lơn bằng sắt mỹ nghệ. Nhà cửa ở đây phần lớn đã được chia thành nhiều căn hộ. Khu này không có vườn trước nhà, chỉ có bậc thang dẫn xuống tầng ngầm.

Con phố thấm đẫm một phong vị bùi bụi, điểm xuyết những chi tiết cuộc sống của giới trung lưu như những bộ sưu tập chậu cây ngẫu nhiên trên một ban công, chiếc xe đạp ở ban công khác và áo quần phơi trên dây ướt nhẹp, sắp bị đông cứng vì bị bỏ quên trong mưa tuyết ở ban công thứ ba.

Ngôi nhà của ông bà Waldegrave là một trong số những ngôi nhà ít ỏi vẫn còn giữ nguyên vẹn, không bị chia thành căn hộ. Strike đứng nhìn, tự hỏi không biết biên tập viên hàng đầu thì lương bao nhiêu, rồi nhớ là Nina có nói vợ của Waldegrave thuộc loại “giàu từ trong trứng”. Ban công tầng một (hắn phải chạy qua bên kia đường mới nhìn rõ) có đặt hai chiếc ghế võng ướt đẫm. Vải căng ghế in hình mấy cuốn bìa mềm kinh điển của nhà xuất bản Penguin, cạnh đó là chiếc bàn sắt bé xíu, đúng loại bàn hay dùng trong các nhà hàng bình dân Paris.

Hắn châm một điếu thuốc nữa, trở lại phía bên kia đường rồi đưa mắt nhìn xuống căn hộ tầng ngầm nơi con gái của Waldegrave ở. Hắn vừa nhìn vừa ngẫm nghĩ có khi nào Quine đã nói chuyện Bombyx Mori với Waldegrave từ trước chăng. Có khi nào chính Quine thổ lộ trước cái kết? Rồi có lẽ nào sau đó người đàn ông dễ mến, đeo kính gọng sừng đó gật gù đáp lại, nhiệt tình giúp Quine trau chuốt lại cảnh cuối trong sách cho đủ phần ghê gớm, vừa làm việc vừa biết trước rằng sẽ có ngày mình ra tay tái hiện lại cảnh đó?

Trước cửa căn hộ tầng ngầm có nhiều túi rác đen. Hình như Joanna Waldegrave vừa làm một đợt tổng vệ sinh. Strike quay lưng lại, quan sát cỡ chừng năm chục khung cửa sổ đối diện hai cửa chính của hộ nhà Waldegrave. Nếu là thủ phạm, ông biên tập phải vô cùng may mắn mới ra vào nhà mà không bị ai nhìn thấy.

Nhưng vấn đề ở chỗ, Strike rầu rĩ ngẫm ngợi, ngay cả nếu có người chứng kiến Jerry Waldegrave lén lút trở vào nhà mình lúc hai giờ sáng, tay cầm theo một túi xách đầy ngộn, đáng nghi, thì cũng sẽ rất khó thuyết phục bồi thẩm đoàn rằng lúc đó Owen Quine đã tèo thật sự. Có quá nhiều nghi ngờ chung quanh thời điểm tử vong. Thủ phạm đã có tổng cộng mười chín ngày để phi tang bằng chứng, một khoảng thời gian khá dài, có thể làm được nhiều việc.

Bộ ruột của Owen Quine có thể đi đâu được? Strike tự hỏi thủ phạm đã làm gì với hàng chục cân ruột và dạ dày vừa mới moi ra khỏi xác? Chôn? Quăng xuống sông? Vứt vào thùng rác ngoài đường? Dễ gì mà đốt hết chỗ đó…

Cửa trước nhà Waldegrave mở ra. Một phụ nữ tóc đen, mặt mày sưng sỉa bước xuống tam cấp. Bà ta mặc áo khoác ngắn màu đỏ thắm, trông giận dữ.

“Tôi đứng ở cửa sổ, để ý thấy anh nãy giờ rồi,” bà ta lên tiếng khi bước tới gần hắn. Strike nhận ra Fenella, tức Waldegrave phu nhân. “Anh đang làm trò gì vậy? Tại sao anh đi rình mò nhà tôi?”

“Tôi đang đợi bên môi giới thuê nhà,” Strike nói dối ngay lập tức, không hề ngượng mồm. “Căn hộ tầng ngầm đang tìm người thuê, đúng không?”

“Ô” bà ta đáp, bị bất ngờ. “Không phải, chỗ đó cách đây ba căn kia,” bà ta chỉ tay.

Hắn thấy rõ Fenella chớm có ý xin lỗi, nhưng rồi quyết định đi luôn. Bà ta quay lưng, lóc cóc rảo bước trên đôi giày cao gót hàng hiệu chẳng ăn nhập gì với trời tuyết. Fenella đi về phía chiếc xe Volvo đậu gần đó. Mái tóc đen của bà ta lộ ra chỗ chân tóc đã ngả bạc. Khi bà ta đứng gần, hắn nghe thoáng hơi thở có mùi rượu. Biết Fenella vẫn có thể thấy mình trong kính chiếu hậu, hắn lọc cọc đi về hướng bà ta chỉ, đợi cho tới khi xe chạy hẳn, sém chút nữa thì tông vào chiếc Citroën ngay trước mặt. Fenella khuất dạng, hắn mới cẩn thận đi tiếp đến cuối con đường, rẽ qua đường ngang. Hắn đứng đó, nhìn dãy vườn sau nho nhỏ chạy dài theo dãy nhà.

Vườn nhà Waldegrave chẳng có gì đặc biệt, trừ một nhà kho cũ trong vườn. Bãi cỏ xơ xác, cằn cỗi. Góc cuối vườn đặt một bộ bàn ghế thô mộc, trông buồn buồn như đã bị bỏ rơi lâu ngày. Nhìn khu vườn ngổn ngang đó, hắn rầu rĩ nghĩ đến một loạt những khả năng khác: nhà kho, các lô vườn thuê rồi cả những garage mà hắn không hề biết đến.

Hắn nghĩ đến chặng đường đi bộ dài dằng dặc, ướt nhẹp và lạnh lẽo trước mắt, rên thầm trong bụng, rồi bắt đầu tính toán. Ga tàu điện ngầm gần đây nhất là Kensington Olympia, nhưng đến cuối tuần thì tuyến District mới chạy qua đó. Ga tàu thường gần nhất là Hammersmith, từ đó dễ đi hơn là từ ga tàu điện ngầm Baron’s Court, vậy là hắn quyết đi đường vòng.

Strike rẽ xuống phố Blythe, cứ mỗi bước chân phải lại nhíu mày một cái. Điện thoại đổ chuông: Anstis.

“Mày làm trò gì vậy hả Bob?”

“Ý mày sao?” Strike hỏi lại, lê chân trên phố, đầu gối nhức như vừa bị đâm.

“Mày cứ lảng vảng ở hiện trường.”

“Trở lại xem vài thứ. Chỉ ở chỗ công cộng. Không có gì sai.”

“Mày định phỏng vấn hàng xóm…”

“Lúc đó ông ta tình cờ mở cửa thôi,” Strike đáp. “Tao chẳng đả động gì đến Quine cả.”

“Nghe này Strike…”

Hắn nhận ra Anstis vừa dứt dạc chuyển sang gọi hắn bằng tên thật. Hắn cũng chẳng ưa gì cái biệt danh anh ta đặt cho mình.

“Tao nói rồi, mày đừng có xía vô chuyện bên tụi tao.”

“Không được, Anstis à,” Strike thản nhiên đáp. “Tao có một thân chủ đang…”

“Quên mẹ thân chủ của mày đi,” Antis cắt ngang. “Thân chủ gì, sát thủ thì có. Tao nói thật, thôi dẹp đi, mày cứ vậy thì nhiều người ghét lắm. Tao đã nói trước rồi…”

“Đúng, mày có nói,” Strike đáp. “Mày nói rất rõ. Không ai quy trách nhiệm gì cho mày đâu, Antis à.”

“Tao dặn mày không phải vì tao sợ trách nhiệm,” Anstis gằn giọng.

Strike im lặng bước đi, chật vật áp điện thoại lên tai. Im lặng một lát, Anstis tiếp:

“Đã có báo cáo dược lý rồi. Trong máu có chút rượu, chẳng có gì khác.”

“OK.”

“Chiều nay tụi tao đem chó ra khu bãi rác Mucking Marshes. Làm sớm cho kịp tuyết. Nghe đâu sắp có đợt tuyết lớn.”

Mucking Marshes là bãi rác lớn nhất ở Anh quốc, là nơi gom rác cho cả London, các thứ rác sinh hoạt thường được chở dọc theo sông Thames trên những chiếc xà lan xấu xí.

“Mày nghĩ là bộ ruột bị vứt trong thùng rác nào đó sao?”

“Có lẽ là thùng rác xây dựng. Ở cuối phố Talgarth có một nhà đang sửa; trước nhà đặt hai thùng rác xây dựng mãi đến ngày tám. Trời lạnh vậy thì có lẽ không bị ruồi bu. Tụi tao kiểm tra rồi. Thợ ở đó chở hết rác rến về Mucking Marshes.”

“Vậy thì chúc may mắn,” Strike nói.

“Tao chỉ không muốn mày phải mấy thì giờ và công sức nữa, bồ tèo à.”

“Được rồi. Tao cảm ơn.”

Strike gượng gạo cảm ơn Anstis đã mời ăn tối đêm trước rồi dập máy. Hắn dừng lại, đứng dựa vào tường, bấm số trên điện thoại. Một phụ nữ châu Á nhỏ con đẩy xe em bé ở đâu trờ tới, cô ta phải đẩy xe vòng qua hắn, nhưng khác với người đàn ông trên chiếc cầu West Brompton cô ta không chửi thề gì cả. Cũng như tấm áo choàng burqa, chiếc gậy chống dường như có phép bảo vệ đặc biệt, cô ta còn mỉm cười với hắn khi ngang qua mặt.

Leonora Quine bắt máy sau ba hồi chuông.

“Cảnh sát cảnh siếc trở lại đây rồi,” bà ta mở lời.

“Họ muốn gì?”

“Họ muốn xem khắp căn nhà và ngoài vườn,” bà ta nói.

“Có phải cho họ xem không?” Strike ngập ngừng.

“Tôi nghĩ họ muốn làm gì thì cứ để họ làm. Nghe này chị Leonora,” hắn thẳng thừng chuyển giọng nghiêm túc dứt khoát, “chị có luật sư không?”

“Không, tại sao kia? Tôi đã bị bắt đâu. Chưa mà.”

“Tôi nghĩ chị cần luật sư.”

Rồi cả hai im lặng.

“Anh có biết ai giỏi không?” bà ta hỏi.

“Có,” Strike đáp. “Chị gọi cho Ilsa Herbert. Để tôi đọc số cho.”

“Orlando không thích cảnh sát dòm…”

“Tôi sẽ nhắn tin cho chị số này, tôi muốn chị gọi ngay cho Ilsa. Được không? Gọi ngay nhé.”

“Được rồi,” bà ta lầm bầm.

Hắn dập máy, tìm số điện thoại của cô bạn cũ rồi gởi cho Leonora. Rồi hắn gọi Ilsa, giải thích và xin lỗi trước.

“Không hiểu bồ xin lỗi mình làm gì,” Ilsa hồ hởi đáp. “Tụi mình rất khoái mấy vụ dính tới cảnh sát, kiếm ăn chủ yếu ở đó.”

“Có thể Leonora đủ tiêu chuẩn nhận trợ cấp pháp lý.”

“Thời buổi bây giờ có mấy ai được đâu,” Ilsa đáp. “Thôi cứ mong là bà ấy nghèo thiệt nghèo.”

Tay Strike lạnh cóng, hắn thấy đói cồn cào. Hẳn thả điện thoại vào lại trong túi áo rồi đi cà nhắc ra phố Hammersmith. Bên kia đường có một tửu quán trông khá ấm cúng. Tửu quán sơn màu đen, treo biển sắt tròn vẽ hình thuyền căng buồm. Hắn đi thẳng tới đó, để ý thấy mấy tay lái xe dường như kiên nhẫn hơn hẳn khi nhường đường cho người chống gậy.

Ăn quán hai ngày liên tục… nhưng mưa tuyết thế này, chân cẳng thì đau đớn; Strike chẳng thèm thấy tội lỗi gì nữa. Bên trong quán Albion cũng ấm cúng như ở ngoài nhìn vào. Quán dài và hẹp, ở cuối phòng có lò sưởi đốt củi, có tầng lửng với chấn song bao lơn, nhìn đâu cũng thấy gỗ sáng bóng. Phía dưới cầu thang xoắn ốc bằng sắt màu đen có hai chiếc loa và một giá đỡ micro. Dọc theo bức tường màu kem treo ảnh trắng đen của những nhạc sĩ nổi tiếng.

Chỗ gần lò sưởi đã có người. Strike mua một vại bia, cầm lấy tờ thực đơn rồi tiến về bộ bàn ghế cao gần cửa sổ nhìn ra đường. Khi ngồi xuống hắn nhận ra hình cha mình trên tường, giữa hình Duke Ellington và Robert Plant. Trong hình Rokeby tóc dài, mồ hôi nhễ nhại kiểu mới vừa diễn xong. Rokeby đang đùa gì đó với tay bass mà đã có lúc (theo như mẹ hắn kể) từng bị ông ta bóp cổ.

(“Tốc độ không phải là thế mạnh của Jonny,” bà Leda mẹ hắn từng thổ lộ với cậu con trai chín tuổi, khi đó chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả.)

Điện thoại lại đổ chuông. Mắt vẫn nhìn vào hình ông già, hắn bấm nút trả lời.

“Alô,” Robin lên tiếng. “Tôi quay lại văn phòng rồi. Anh ở đâu vậy?”

“Quán Albion trên phố Hammersmith.”

“Anh có cuộc gọi nhỡ lạ lùng lắm. Lúc về lại văn phòng tôi có thấy tin nhắn thoại.”

“Cô nói đi.”

“Daniel Chard gọi,” Robin nói. “Ông ấy muốn gặp anh.”

Strike nhíu mày, rời mắt khỏi tấm hình ông già mặc bộ đồ da, nhìn xuống lò sưởi bập bùng. “Daniel Chard muốn gặp tôi sao? Làm sao ông ta biết tôi là ai?”

“Trời đất, anh tìm ra xác nạn nhân mà! Báo đăng còn gì.”

“À ha, đúng rồi. Vậy ông ta có nói vì sao muốn gặp tôi không?”

“Ông ấy nói là có một đề nghị với riêng anh.”

Tự dưng lúc đó trong đầu hắn bỗng hiện lên hình ảnh một người đàn ông trần truồng, đầu hói, hàng họ tồng ngỗng gớm ghiếc. Hình ảnh đó nhanh chóng bị gạt đi.

“Tôi cứ tưởng ông ta bị kẹt ở Devon vì gãy chân kia mà.”

“Đúng vậy. Có nói không biết anh có sẵn lòng xuống dưới đó gặp ổng không.”

“Ồ, vậy nữa sao?”

Strike ngẫm ngợi về lời mời, nghĩ đến khối lượng công việc hiện thời, những cuộc gặp mặt trong tuần. Cuối cùng, hắn nói:

“Tôi có thể đi thứ Sáu nếu hoãn Burnette lại. Nhưng ông ta muốn gì kia chứ? Vậy thì tôi cần thuê xe. Xe số tự động,” hắn tiếp, cái chân đặt dưới bàn vẫn đau ghê gớm. “Cô làm giúp tôi được không?”

“Được,” Robin đáp. Hắn nghe tiếng cô viết hí hoáy trên giấy.

“Tôi có nhiều chuyện kể với cô lắm,” hắn nói. “Hay cô đi ra ăn trưa với tôi? Đồ ăn ở đây cũng được. Nếu đi taxi thì không tới hai mươi phút đâu.”

“Hai ngày liền luôn? Mình không thể cứ đi taxi với ăn ngoài mãi được,” Robin đáp, mặc dù nghe giọng cô khá là vui vẻ.

“Không sao. Burnett rất thích xài tiền của chồng cũ. Tôi sẽ tính vào công tác phí vụ của bà ấy.”

Strike dập máy, quyết định sẽ ăn món bánh nhân thịt bò nấu bia, rồi đi cà nhắc ra quầy bar để gọi món.

Khi trở lại bàn hắn lại đảo mắt đến tấm chân dung ông già mặc đồ da bó chặt, tóc bết quanh gương mặt dài, đang cười hô hố.

Người Vợ biết chuyện mình nhưng cứ dã vờ không biết… không để anh ấy ra đi, ngay cả khi đó là điều tốt nhất cho hết thảy mọi người… Tôi biết ông đi đâu rồi, Owen!

Strike liếc mắt dọc theo hàng ảnh chân dung trắng đen của cái siêu sao ca nhạc trên bức tường đối diện.

Tôi đang huyễn hoặc chính mình chăng? Hắn thầm hỏi John Lennon. Trong ảnh John giễu nhại nhìn hắn qua cặp kính tròn trên chiếc mũi nhọn.

Tại sao hắn lại không tin là Leonora đã giết chồng, mặc cho chứng cứ hiện có như đang muốn đẩy kết luận về hướng đó? Tại sao hắn vẫn khăng khăng rằng bà ta đã đến tìm hắn, không phải để che đậy, mà là thực sự giận dữ vì Quine đã bỏ đi như một đứa trẻ hờn dỗi? Lúc đó bà ta trông như chẳng hề nghĩ đến chuyện có khi ông chồng đã chết… Hắn mãi nghĩ ngợi, uống cạn vại bia trước mặt lúc nào mà không hay.

“Chào anh,” Robin lên tiếng.

“Nhanh vậy!” Strike ngạc nhiên khi thấy Robin đã đến.

“Cũng đâu có nhanh gì,” Robin đáp. “Đường sá đông đúc lắm. Để tôi đi gọi món nhé?”

Khi Robin tiến về phía quầy bar, đàn ông trong quán cứ quay đầu dõi theo cô, nhưng Strike không để ý. Hắn vẫn còn nghĩ đến Leonora Quine, gầy gò, dung mạo tầm thường, tóc ngả bạc âu lo.

Robin trở lại bàn, mang theo một vại bia nữa cho Strike và cốc nước cà chua cho mình. Cô mở điện thoại cho hắn xem mấy tấm hình cô chụp sáng hôm đó ở nhà trong phố của Daniel Chard. Một villa trát vữa stucco trắng, đầy đủ chấn song bao lơn, cửa trước đen bóng nằm giữa hai cây cột.

“Có thêm sân trước, ở ngoài đường không thấy được,” Robin kể, mở một hình nữa. Trong hình là những bụi cây trồng trong lư chậu phình to kiểu Hy Lạp. “Có khi Chard chôn đống ruột vô trong đó,” cô nhanh nhảu. “Nhổ cây ra, chôn trong đất chậu.”

“Khó mà hình dung Chard làm việc động tay động chân đến vậy, nhưng cứ nghĩ theo hướng đó đi,” Strike đáp, nhớ lại bộ complet tinh tươm và chiếc cà vạt màu mè của ông giám đốc nhà xuất bản. “Còn Clem Atlee Court sao? Tôi nhớ ở đó có nhiều chỗ có thể giấu giếm.”

“Nhiều lắm,” Robin nói, mở thêm một loạt hình mới. “Thùng rác công cộng, bụi cây, đủ món. Chỉ có điều tôi không thể tưởng tượng nổi sao có thể làm vậy từ đầu tới cuối mà lại không hề bị ai thấy. Lúc nào ở đó cũng có người, nhất cử nhất động đều có thể bị nhìn thấy từ cả trăm cửa sổ. Cứ cho là làm lúc nửa đêm đi thì vẫn có camera.

“Nhưng tôi có để ý cái này. Thực ra… chỉ là phỏng đoán.”

“Cô nói đi.”

“Ngay trước chung cư có một trạm y tế. Có khi nào thỉnh thoảng họ lại có rác…”

“Rác y tế!” Strike reo lên, đặt vại bia xuống. “Trời đất, ý hay đó.”

“Vậy tôi đi xem chỗ đó luôn nhé?” Robin hỏi, cố giấu vẻ sung sướng tự hào khi Strike ngưỡng mộ nhìn cô. “Tìm hiểu xem khi nào…?”

“Đi chứ!” Strike hưởng ứng. “Hướng đó hay hơn hẳn hướng Anstis đang theo,” hắn giải thích khi thấy vẻ bối rối trên gương mặt cô, “anh ta cứ nghĩ rằng đống ruột bị vứt trong thùng rác xây dựng gần phố Talgarth, rằng sát thủ chỉ mang ra góc đường rồi vứt vào đó.”

“Thì cũng có khả năng đó,” Robin bắt đầu, nhưng Strike nhăn mặt, hệt như vẻ mặt Matthew mỗi khi cô kể chuyện về Strike.

“Vụ này được tính toán vô cùng chi li. Không có chuyện sát thủ lại đi vứt một chiếc túi đi đường đầy ruột người ngay góc đường gần hiện trường.”

Hai người ngồi đó, im lặng. Robin ngẫm nghĩ, hơi lạc đề, rằng thái độ của Strike với hướng điều tra của Anstis chỉ là sự ganh đua thuần túy, chứ chẳng phải tính toán khách quan gì cả. Chung sống với Matthew, rồi lại có ba đứa em trai, Robin quá hiểu tự ái đàn ông.

“Vậy nhà của Elizabeth Tassel và Jerry Waldegrave thì sao?”

Strike kể lại chuyện vợ của Waldegrave nghĩ rằng hắn đang rình mò nhà bà ta.

“Có vẻ cáu tiết thật.”

“Kỳ lạ,” Robin nói. “Nếu có ai nhìn vào nhà mình thì tôi cũng không nghĩ ngay là… là họ đang rình mò.”

“Bà này cũng sâu rượu như ông chồng,” Strike đáp. “Tôi nghe mùi rượu. Trong khi đó nhà của Elizabeth Tassel đúng là địa điểm ẩn náu lý tưởng của một sát thủ.”

“Ý anh là sao?” Robin hỏi, vừa sờ sợ vừa thấy tức cười.

“Rất riêng tư, không dòm ngó gì được.”

“Nhưng, tôi vẫn không nghĩ…”

“… sát thủ là phụ nữ. Cô có nói vậy.”

Strike uống bia, im lặng trong giây lát, tính toán một kế hoạch hành động mà hắn biết chắc sẽ khiến Anstis tức tối nhất. Hắn không có quyền phỏng vấn đối tượng khả nghi. Hắn đã được cảnh báo là đừng có xía vào việc của cảnh sát.

Strike cầm điện thoại lên, ngẫm nghĩ một lúc rồi gọi cho nhà xuất bản Roper Chard, nhờ chuyển máy cho Jerry Waldegrave.

“Anstis đã dặn anh đừng có…” Robin nói, lo lắng.

“Ừ,” Strike đáp, đầu dây bên kia vẫn im lặng, “anh ta cứ nhắc đi nhắc lại, nhưng tôi vẫn chưa kể hết chuyện cho cô nghe. Đợi lát nữa…”

“Alô?” Jerry Waldegrave lên tiếng.

“Chào ông Waldegrave,” Strike nói, tự giới thiệu mặc dù đã nói trước với thư ký của Waldegrave. “Hôm qua tôi có gặp ông ở nhà của bà Quine.”

“À đúng rồi,” Waldegrave đáp. Giọng ông ta có vẻ ngạc nhiên nhưng vẫn lịch sự.

“Như bà Quine đã nói với ông, bà ấy thuê tôi vì lo là cảnh sát đang nghi ngờ bà ấy.”

“Tôi chắc chắn không có chuyện đó,” Waldegrave đáp ngay lập tức.

“Chuyện cảnh sát nghi ngờ, hay chuyện bà ta giết chồng?”

“À… cả hai,” Waldegrave đáp.

“Thường khi người chồng chết thì người ta luôn điều tra người vợ khá kỹ,” Strike nói.

“Tôi biết, nhưng tôi không thể… Tôi không tin được.” Waldegrave nói. “Cả chuyện này quá kinh khủng, không thể tin được.”

“Vâng,” Strike nói, “Tôi không biết liệu tôi có thể gặp ông, hỏi ông vài câu được không? Tôi có thể,” tay thám tử đề nghị, khẽ liếc Robin, “đến nhà ông, sau giờ làm việc, lúc nào cũng được.” Waldegrave không trả lời ngay.

“Đương nhiên tôi sẵn lòng giúp Leonora, nhưng anh nghĩ tôi có thể cho anh biết gì kia?”

“Tôi rất quan tâm tới Bombyx Mori,” Strike đáp. “Ông Quine có đưa rất nhiều người vào sách, theo hướng không tích cực lắm.”

“À,” Waldegrave nói. “Đúng vậy.”

Strike tự hỏi không biết bên cảnh sát đã phỏng vấn Waldegrave chưa; không biết ông ta đã phải giải thích ý nghĩ của chiếc bị và nhân vật người lùn chết đuối chưa.

“Được rồi,” Waldegrave nói. “Tôi gặp anh cũng được. Nhưng tuần này tôi kín lịch rồi. Để xem thử… ăn trưa thứ Hai được không?”

“Được,” Strike đáp, xót ruột nghĩ như vậy cũng có nghĩa là hắn phải móc ví, mà lại không có cơ hội quan sát bên trong nhà Waldegrave. “Ở đâu?”

“Chỗ nào gần văn phòng đi; chiều hôm đó tôi rất bận. Nhà hàng Simpson’s-in-the-Strand được không?”

Strike nghĩ thật là một lựa chọn kỳ khôi, nhưng hắn vẫn đồng ý. Mắt hắn vẫn nhìn mắt Robin. “Một giờ? Tôi sẽ nhờ thư ký đặt chỗ trước. Gặp ông sau.”

“Ông ta sẽ gặp anh sao?” Robin hỏi, ngay khi Strike vừa dập máy.

“Đúng thế,” Strike đáp. “Thật là mờ ám.”

Cô lắc đầu, khẽ bật cười.

“Nhưng ổng có hào hứng lắm đâu. Ông ta đồng ý gặp, anh không nghĩ như vậy có nghĩa là ông ta không có gì mờ ám sao?”

“Không,” Strike đáp. “Tôi đã nói với cô rồi; rất nhiều kẻ thích lảng vảng quanh thể loại như tôi, để xem điều tra đang đi đến đâu. Họ đứng ngoài không yên, thấy phải giải thích nọ kia nữa.

“Tôi đi vệ sinh chút… cô đợi đó… tôi còn nhiều chuyện chưa kể…”

Robin nhấm nháp nước cà chua khi Strike cà nhắc đi ra nhà vệ sinh với cây gậy mới.

Lại một đợt tuyết bay ngang cửa sổ, tan đi nhanh chóng. Robin nhìn lên hàng chân dung trắng đen đối diện rồi nhận ra, hơi bị sốc, trong đó có hình của Jonny Rokeby, cha của Strike. Trừ chuyện cao trên mét tám, hai người chẳng giống gì nhau cả; phải đến khi có kết quả xét nghiệm ADN thì Rokeby mới chịu nhận con. Trên trang Wikipedia của Rokeby, Strike được liệt kê dưới mục con cái. Strike từng kể với Robin là đã gặp cha hai lần. Sau khi nhìn một hồi lâu vào chiếc quần da bó sát lồ lộ của Rokeby, Robin cố hướng mắt ra cửa sổ trở lại, ngại rằng Strike sẽ bắt gặp cô đang nhìn ngay “ngã ba” của ông già mình.

Strike trở lại bàn. Thức ăn cũng được dọn ra.

“Cảnh sát đang khám xét khắp nhà Leonora,” Strike nói, tay cầm dao nĩa.

“Tại sao vậy?” Robin hỏi, tay nĩa chưa kịp buông xuống.

“Chứ cô nghĩ là tại sao kia? Tìm áo quần dính máu. Tìm trong vườn xem có hố chôn nội tạng người không. Tôi đã giới thiệu luật sư cho bà ấy. Hiện giờ người ta chưa có đủ bằng chứng để xuất lệnh bắt, nhưng họ rất quyết tâm phải tìm ra thứ gì đó.”

“Anh thực sự không nghĩ bà ấy là thủ phạm sao?”

“Không, tôi không nghĩ thế.”

Strike đã kịp ăn sạch đĩa trước khi nói tiếp.

“Tôi muốn nói chuyện với Fancourt. Tôi muốn biết tại sao ông ta về Roper Chard khi Quine vẫn còn ở đó, hai người ghét nhau có tiếng. Về đó thì kiểu gì cũng phải chạm mặt.”

“Anh nghĩ Fancourt giết Quine để đi tiệc cơ quan khỏi đụng mặt sao?”

“Biết đâu đó,” Strike nói, nửa đùa nửa thật.

Hắn uống cạn cốc rồi cầm điện thoại lên, gọi cho Tổng đài danh bạ rồi nhờ chuyển đến số của Văn phòng đại diện tác giả của Elizabeth Tassel.

Ralph, trợ lý của bà ta bốc máy. Khi Strike giới thiệu tên, nghe giọng anh ta vừa sờ sợ, lại vừa hứng thú.

“Ồ, tôi không biết… Để tôi hỏi. Phiền anh chờ.”

Nhưng có vẻ Ralph không rành sử dụng điện thoại lắm. Anh ta bấm nút trên điện thoại sao đó, có tiếng kêu rõ to nhưng đường dây vẫn còn mở. Strike nghe được văng vẳng tiếng Ralph báo với bà chủ là Strike đang ở bên kia đầu dây. Bà ta nóng nảy, gằn giọng nạt lại.

“Giờ anh ta muốn cái quái gì nữa?”

“Anh ấy không nói.”

Tiếng bước chân thình thịch, tiếng ống nghe điện thoại bị giằng khỏi bàn.

“Alô?”

“Elizabeth,” Strike tươi tỉnh chào hỏi. “Là tôi, Cormoran Strike đây.”

“Biết rồi, Ralph có nói. Có chuyện gì?”

“Tôi không biết có thể gặp bà được không. Tôi vẫn đang làm việc cho Leonora Quine. Bà ấy tin là cảnh sát đang nghi ngờ bà ấy là thủ phạm giết chồng.”

“Vậy anh muốn nói chuyện với tôi làm gì? Tôi đâu thể nói cho anh biết bà ta có phải là thủ phạm hay không.”

Strike mường tượng ra vẻ choáng váng trên gương mặt Ralph và Sally đang dỏng tai dõi theo trong văn phòng hôi hám đó.

“Tôi vẫn còn vài câu hỏi về Quine.”

“Ôi, lại còn thế nữa!” Elizabeth gầm gừ. “Để coi, tôi có thể gặp anh giờ ăn trưa ngày mai, nếu tiện cho anh. Nếu không thì tôi bận cho tới…”

“Ngày mai rất tiện,” Strike đáp. “Nhưng không cần phải ăn trưa, tôi có thể…?”

“Ăn trưa tiện cho tôi.”

“Vâng, được thôi,” Strike đáp ngay lập tức.

“Pescatori, phố Charlotte,” bà ta nói. “Mười hai giờ rưỡi, trừ khi tôi hẹn lại.”

Bà ta dập máy.

“Cái đám sách vở này hở cái là ăn trưa,” Strike nói. “Không lẽ không dám mời tới nhà vì sợ tôi lục tủ lạnh, phát hiện ra ruột Quine trong đó hay sao?”

Nụ cười trên mặt Robin tan đi.

“Anh biết không, anh làm vậy dễ mất bạn bè như chơi,” cô nói, bắt đầu mặc áo khoác vào. “Cứ gọi điện tùm lum rồi đòi phỏng vấn hết người này tới người kia.”

Strike gầm gừ.

“Anh không lo sao?” cô hỏi, khi hai người ra khỏi quán ấm, bước vào trời lạnh tê tái, tuyết rơi trên mặt như muốn cắt da cắt thịt.

“Tôi còn nhiều bạn nữa, lo gì,” Strike đáp, thật thà, không chút màu mè.

“Trưa nào mình cũng nên làm một ly bia,” hắn nói thêm, dồn sức nặng cơ thể lên cây gậy khi cả hai tiến về trạm tàu điện, đầu cúi xuống dưới màn tuyết trắng mờ không ngớt. “Coi như thư giãn giữa ngày.”

Robin đi chậm lại giữ nhịp với hắn. Cô mỉm cười. Kể từ khi bắt đầu làm việc cho Strike, chưa hôm này cô thấy vui như hôm nay. Nhưng không thể để Matthew biết vụ đi quán trong hai ngày liên tiếp. Anh ấy vẫn đang ở Yorkshire phụ gia đình chuẩn bị đám tang mẹ.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.